Giống Vanda
Vanda là tên tiếng Sankrit ở vùng Bengal, Ấn độ, ngày nay đã trở thành tên của giống lan này, nó bao gồm 50 loài khác nhau đều thuộc các nước châu Á nhiệt đới. Giống Vanda được phân bố từ Himalayas và nam Trung hoa xuống phía nam qua Sri Lanka, các nước Đông nam Á tới Papua New Guinea và miền bắc Australia.
Vanda là một trong số các giống lan phổ biến nhất và giống này ngày càng trở nên phong phú vì kết quả của những đợt lai tạo giữa chúng với nhau và với các nhóm khác.
Có ba nhóm lan quý thuộc Vanda, đó là nhóm Vanda lá hình đai (strap leaf), Vanda lá
nhọn (terete leaf) và Vanda bán nhọn (semiterete).
Vanda strap leaf là loài lá dẹt như cái đai (thùng) và cũng có người ví nó như cái dây
đồng hồ đeo tay. Vanda terete leaf có lá hình trụ, một đầu nhọn, người ta ví nó như cây bút chì. Giữa hai loài terete leaf và strap leaf là loài semi-terete, đó là lan lai giữa Vanda strap leaf với Vanda terete leaf. Sau đó người ta còn lai tạo ra những loài có lá quater-terete và threequater terete vân vân.
Vanda là giống lan đơn thân. Một khi được chăm sóc tốt, loài Vanda strap leaf sẽ cho những cây cao, lá dày, và mọc về hai phía quanh thân giống như cái xương cá. Rễ hình trụ mọc từ thân, vuông góc với lá và ngày càng dài ra về phía dưới, khi rễ gặp giá thể chúng sẽ bám vào và sinh ra nhánh rễ mới. Khi cây lớn đến một mức nào đó thì sẽ có chồi mới mọc ra từ gốc. Vanda strap leaf ưa nắng nhưng lại cần có những vết nắng dưới các tàn lá cây, ưa nơi thoáng khí, thoát nước tốt nhưng lại cần bón phân thường xuyên và tưới đẫm nước. Thái-lan có 12 loài bản địa, nay là nước dẫn đầu về lai tạo giống này. Người Thái có cách riêng trồng Vanda strap leaf, đó là dùng giỏ gỗ bằng gỗ tếch, không có chất trồng bên trong, làm cho bộ rễ rủ xuống, nhờ vậy mà chúng hấp thu được độ ẩm từ đất tốt hơn. Cách trồng này được du nhập vào Malaysia và Singapore, thay thế cách trồng trước.
Vanda lá terete là loài có thân dẻo dai, chúng cần được cung cấp ánh sáng càng nhiều càng tốt, đối với loài này thì không bao giờ trồng chúng dưới bóng râm. Thân của Vanda lá terete mảnh dẻ và được bao bọc bởi đoạn cuối của lá làm cho toàn thân có màu xanh, trừ những lóng ngắn. Phần gốc lá quấn quanh thân, tạo thành như một cái ống có tác dụng giữ ẩm, chống chọi với mùa khô hạn. Rễ của chúng mọc thẳng góc với thân và bám chặt vào các thân cây rừng hoặc giá thể. Rễ cây sẽ phân nhánh một khi chúng tiếp xúc với chất trồng ở dưới đất hoặc chất mùn ở đầm lầy. Trồng Vanda lá teretecũng giống như trồng lan ‘Bò cạp’ (ScorpionOrchids), tức là trồng ngoài nắng hoàn toàn, cột chúng vào một khúc cây.
Semi-terete Vanda thừa hưởng mạnh mẽ sự di truyền của cha mẹ chúng là terete Vanda ở chỗ dẻo dai, nhiều hoa và ưa nắng nhưng nó không phát triển mạnh như terete Vanda.
Các vòi hoa của Vanda bao giờ cũng hướng lên trên, thường thì có phân nhánh, hoa có nhiều kích cỡ và dải màu rộng, từ trắng, kem, vàng, cam, đỏ, tím hoa cà, tím, xanh dương và xanhlục và có cả những màu trung gian. Một vài loài sắp xếp màu như khảm trong khi số khác lại có những đốm. Các cánh hoa và các lá đài thường bằng nhau và khá tròn. Môi có ba thùy và cựa. Về cấu trúc của hoa nhìn chung thì đơn giản hơn hầu hết các loài lan khác.
Là một trong những loài lan đẹp nhất đại
diện cho giống Vanda và Ascocenda, có cánh
hoa tròn và màu xanh dương. Người ta tìm thấy
loài này trên độ cao 1.000-1.500 m ở miền bắc
và tây bắc Thái-lan trải dài xuống Ấn độ và
Miến điện. Cây lan thường mọc trên các thân
cây nơi rừng thưa và thường dưới ánh nắng
trực tiếp của mặt trời. Môi trường sinh sống của chúng trong tự nhiên là những vùng có khí hậu lạnh và ẩm và nhiệt độ về đêm phải xuống dưới 10 độ C mới thích hợp. Song vừa qua ở Bangkok người ta đã thuần hóa được loài này nên nó có khả năng ra hoa ở những vùng đất thấp nhiệt đới. Tất nhiên chúng sẽ phát triển và ra hoa đều đặn ở những nơi có khi hậu ôn hòa.
Vòi hoa của loài này cũng hướng lên trên như các loài khác thuộc giống Vanda, vòi hoa dài, mang trên nó 10-15 hoa, hoa to 10 cm. Các cánh hoa cũng như các lá đài đều được khảm một cách tinh tế màu hoa oải hương cho tơi màu xanh dương. Màu của môi là màu xanh đậm.
Các cánh hoa thường hơi cuốn lại về phía sau, song ngày nay loài Vanda ceorulea lai thì có các cánh hoa tròn hơn.
Vanda dearei
Đây là loài Vanda có hoa màu vàng, được
tìm thấy ở những vùng đồng bằng của Borneo.
Đây là loài đại diện cho Vanda màu vàng. Với cái vòi hoa ngắn, chỉ mang trên nó 3-6 hoa và có hương thơm. Hoa tuy chỉ to 8 cm nhưng các cánh thì tròn. Ngày nay người ta thường trồng loài này khi đã lai tạo để có thể trồng chúng dưới ánh mặt trời hoàn toàn hoặc ánh sáng lọt qua các khe lá.
Vanda denisoniana
Là loài hoa đẹp, màu hoa từ trắng đến vàng sáng, màu cam và nâu. Màu hoa thuần trắng và vàng có hương thơm dễ chịu là loài được ưa chuộng nhất. Hoa to 6 cm và cũng chỉ có 6-8 hoa trên mỗi vòi hoa. Nhưng nếu trồng chúng ở những vùng đất thấp nhiệt đới thì số lượng hoa còn ít hơn, vì nơi sinh trưởng của chúng là vùng đông bắc Thái-lan.
Nhà lai tạo lan Rapee Sagarik đã đi tiên phong trong việc lai tạo và hứa hẹn sẽ có một
loài Vanda màu vàng trong tương lai.
Vanda hastifera
Sinh trưởng ở Borneo, chúng có thể phát triển tốt ở những vùng nhiệt đới. Chúng ưa
nhiều nắng và ở môi trường đó, chúng hầu như ra hoa liên tục. Hoa chỉ nhỏ có 3 cm, vòi hoa ngắn, chỉ có 3-8 hoa, với màu vàng xỉn, có hương thơm. Trên cánh hoa có những vết sần như những miếng vá màu nâu sậm.
Vanda hookerana
Chúng sinh trưởng ở Perak, Terengganu và Johor của Malaysia, đồng thời người ta cũng tìm thấy chúng ở Borneo và Sumatra. Hoa có màu tím hoa cà, nổi bật với cái môi gấm màu đỏ tía.
Hai lá đài dưới quăn và nhỏ. Người ta cũng tìm thấy loài này có màu trắng.
Trên mỗi vòi hoa có chừng 4 hoa, nở cùng một lúc.
Vanda insignis
Loài này được tìm thấy ở quần đảo Maluku của Indonesia, hoa nở không mở rộng ra nhưng lại nhiều màu sắc. Các cánh hoa có màu vàng pha màu lục, có những đường kẻ sọc màu nâu đỏ ra đến tận rìa. Thùy giữa của môi có màu tím hoa cà, thùy hai bên có màu trắng. Vòi hoa dài 15-25 cm mang khoảng 7 hoa.
Vanda lamellata
Được tìm thấy ở Philippines, là loài có hoa nhỏ. Vòi hoa dài 30 cm, hướng lên trên và
mang nhiều hoa màu vàng sáng đồng thời lại có những vạch màu nâu. Lần đầu tiên loài này được lai tạo với Arachnis với cái tên Aranda Deborah, là cây ra hoa không theo mùa.
Vanda sanderana
Vanda sanderana trông rất bắt mắt. Các nhà phân loại học đã đề nghị tách loài này ra khỏi các loài thuộc giống Vanda khác, và cho nó một cái tên riêng, đó là Euanthe. Song dù sao Ủy ban quốc tế về định danh các loài lan vẫn đưa loài này vào nhóm các loài Vanda.
Vanda sanderana Mindanao, ở đó người dân địa phương gọi là waling waling, nghĩa là ‘đẹp’. Cây có tính mạnh mẽ của loài Vanda lá đai (strap leaf), với cái vòi hoa dài 20 cm, mang trên nó 10-14 bông hoa, cánh hoa bẹt và tròn mọc quanh vòi hoa. Lá đài sau và các cánh hoa có màu hồng phấn với những chấm màu quế ở gốc. Hai lá đài dưới to và có những gân như mắt lưới màu nâu đỏ, một đôi chỗ tạo thành miếng vá tròn lớn màu hạt dẻ. Cái môi ngắn với một cái đế rỗng màu xanh xám hoặc vàng đục và có những sọc màu nâu đỏ mờ.
Trong việc lai tạo, hai đặc điểm của V. sanderana được bảo tồn thể hiện ở các lá đài dưới cũng như màu sắc của môi.
Vanda sanderana đã được lai tạp hoàn hảo ở Hawaii trong những năm năm mươi và sáu mươi.
Vanda spathulata
Đây là một trong những loài Vanda có hoa màu vàng, xuất xứ từ Sri Lanka và nam Ấn độ.
Cây có tập quán như Arachnis, với các lá ngắn.
Hoa nhỏ trên vòi hoa hướng lên trên và mỗi lần chỉ nở vài bông. Đặc tính nổi trội của nó là loài duy nhất có màu hoa thuần vàng.
Vanda teres
Vanda teres được phân bố rộng rãi ở Lào, Thái-lan và Miến điện cho đến chân núi Hymalayas.
Đây là loài lan leo, chúng thường leo lên các thân cây hoặc bụi cây. Nếu so với Vanda
hookerana thì loài này có thân mập hơn và hoa tròn hơn, to hơn, to khoảng 10 cm. Các cánh hoa thì xoăn lại, vì vậy mặt sau của cánh hoa lại quay về phía trước. Màu hoa là màu tím hoa cà.
Vanda tessellata
Loài này xuất xứ từ Sri Lanka và nam Ấn độ nhưng lại khó ra hoa ở vùng đông nam Á. Hoa chỉ to 5 cm, có mùi xạ hương khó chịu. Màu hoa khá phong phú nhưng phổ biến nhất là màu vàng với những miếng vá màu nâu.
Vanda tricolor
Sự phân bố loài Vanda teres trải dài sang phía đông, từ Java đến Bali và miền bắc lục địa Australia. Chúng có vòi hoa cong mang trên nó 6-10 hoa dạng sáp, có hương thơm và đặc biệt là hoa rất bền. Các cánh hoa và các lá đài cuộn lại hai phần ba về phía sau và mở rộng ra về hai phía mép. Các cánh hoa thì xoắn lại về phía sau.
Màu hoa cũng đa dạng từ trắng đục đến trắng kem hoặc tím hoa cà và có nhiễm đốm nâu màu sô-cô-la.
Vào thời gia sau chiến tranh thế giới II, ở Java người ta trồng nhiều Vanda teres và là một trong những nguồn dùng làm cha mẹ để lai tạo ra những cây như Vanda Nelie Morley vân vân.
Nguồn tài liệu: SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )