Hoa lan Drakaea
LAN CÁI BÚA
Tông: Diurideae
Tông phụ: Drakaeinae
Có khoảng 4 loài đặc hữu ở miền tây nam Australia
Là địa lan, rụng lá theo mùa, thân củ nằm dưới mặt đất. Lá đơn, mọc từ gốc, lá hình trứng hoặc hình bán cầu, phiến lá dày. Vòi hoa có 1 hoa, dựng đứng. Hoa có hình thù kỳ dị, lá đài và cánh hoa tương tự nhau, hơi cuộn lại. Môi không theo quy ước, nhô hẳn ra, cái móng tạo khớp nối với trụ hoa ở phần chân trụ, phiến môi không phân thùy, trông như một con côn trùng, với một mô sần như một cái chùy đầy lông.
Khối phấn 4.
Thụ phấn được thực hiện bởi những con ong muỗi cái làm như chúng là bạn đời với môi hoa.
CÁCH TRỒNG
Thuộc loài lan rất khó trồng. Chất trồng dùng cho loài địa lan nhưng phải thoát nước thật tốt, trong đó có lá cây mục. Giữ ẩm trong suốt mùa thu đến mùa xuân, sang mùa hè khi cây trưởng thành thì để khô. Chúng không thích bị ẩm quá.
Lan Drakaea glyptodon
Lá hình trứng hoặc hình trái tim, dài 20 mm, rộng 20 mm. Cuống hoa có nhiều lông tơ, cao 30 cm. Hoa có màu đỏ mờ, dài chừng 25 mm.
Các lá đài và cánh hoa dài chừng 12 mm. Móng của môi dài 5 mm, phiến môi hình trứng, màu đỏ pha đen, phủ đầy lông cứng.
Thông thường chúng mọc ở vùng đất pha cát trong những bụi cây bên bờ biển, nhưng cũng có thể ở những vùng đất sỏi ở sườn đồi, ở miền tây nam và miền tây Australia
Loài tương tự: Drakaea livida J. Drummond hoa có màu dâu tây, dài chừng 35 mm, phiến môi có màu đỏ pha đen.
Drakaea livida
Nguồn tài liệu : Sách hoa lan ( của Bác Phạm Tiến Khoa )