Prasophyllum
LAN CỦ TỎI TÂY
Tông: Diurideae
Tông phụ: Prasophyllinae
Phân bố: Có trên 100 loài, ở miền nam và miền đông Australia và New Zealand.
Thường là loài địa lan, cây cứng cáp với thân củ nằm dưới mặt đất, chỉ có 1 lá hình trụ, dựng đứng. Vòi hoa không phân nhánh, có vài hoa đến nhiều hoa, hoa thường có màu sắc mờ, có hương thơm. Lá đài sau không theo quy ước, thường lớn hơn lá đài bên, lá đài bên dính liền với nhau một phần hoặc tách rời nhau. Các cánh hoa cũng tách rời nhau. Môi mỏng, không phân thùy, mép thường gợn sóng với một mô sần lớn
và dày. Khối phấn 4.
CÁCH TRỒNG
Cây phát triển đầy đủ là vào mùa hè. Một số loài được kích thích ra hoa bởi đốt lửa, và cũng có loài chỉ ra hoa sau khi đã đốt. Nhiều loài rất khó trồng, đặc biệt là rất khó ra hoa, nhưng có những loài mọc thành bụi thì dễ trồng hơn như Prasophyllum australe. Để trồng các loài này cần phải có nhà kính hoặc nhà trên núi, lúc nào cũng giữ khí hậu mát mẻ, bóng râm vừa phải.
Có thể trồng trên lớp đất cứng, chất trồng dànhcho địa lan, thoát nước tốt, tưới nước nhiều trong quá trình phát triển, khi cây đã trưởng thành thì để khô.
Prasophyllum australe
Lá dài 35 cm. Vòi hoa cao 60 cm, có nhiều hoa mọc sít nhau, hoa to chừng 15 mm, mùi hương nồng, màu trắng hoặc vàng với những sọc màu nâu đỏ và xanh. Môi trắng, cuộn hẳn vào trong.
Làm thành bụi trên những chỗ có cỏ, trong rừng ẩm ướt ở miền trung du, ở miền đông nam Australia, Tasmania.
Lá dài 1,2 m. Vòi hoa cao 1,5 m, nhiều hoa mọc sít nhau. Hoa có hương thơm, to chừng 1,6 cm, màu xanh vàng xỉn, ngả màu nâu hoặc màu đen-đỏ tía. Môi màu trắng, cuộn vào trong, riềm cứng.
Hầu hết đều sống trong bụi rậm ở vùng thấp và vườn thạch nam gần bờ biển, trải dài khắp Australia.
Nguồn tài liệu: SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )