Pleione
Tông: Arethseae
Tông phụ: Coelogyninae
Phân bố: Có trên 20 loài và một số loài lai tạo trong thiên nhiên ở miền bắc Ấn độ, Thái lan, Myanmar, Lào và Việt Nam Loài lan biểu sinh, thạch lan hoặc địa lan, thân lùn, rụng lá. Giả hành hình trứng, hình côn hoặc giống trái lê, có đời sống năm một, mọc thành từng cụm, trên đỉnh có 1-2 lá. Lá mỏng, gấp nếp và có cuống. Vòi hoa thẳng đứng, phát xuất từ gốc của giả hành, có 1-2 hoa, màu sắc hoa nổi bật, màu trắng, hồng, tím hoa cà hoặc đỏ tươi, có vài trường hợp là màu vàng. Môi có những đốm màu đỏ, nâu hoặc vàng.
Các lá đài và cánh hoa phẳng, tương tự nhau. Môi trông gần giống cái ống, không có thùy, đôi trường hợp có ba thùy. Riềm phần đầu môi thường có tua hoặc răng cưa, với một mô sần, bên trong có đường kẻ hoặc lông.
Nhiều loài lai tạo trong cùng giống với nhau hiện đang đươc phổ biến.
CÁCH TRỒNG
Pleione được trồng không chỉ bởi những nhà vườn mà còn bởi những người thích sống trên núi cao. Giống này tuy rất khỏe mạnh, nhưng lại không chịu được sự ẩm ướt về mùa đông, vì thế người ta thường trồng chúng trong các nhà kính có nhiệt độ mát hoặc trồng trong những ngôi nhà trên núi hoặc nơi có điều hòa nhiệt độ.
Đặt chúng bên trong nhà, cạnh cửa sổ cũng phát triển tốt. Vào mùa đông chỉ nên giữ khô và mát cho chúng (không để bị băng giá), và sau khi lan hết kỳ nghỉ thì thay chậu. Trồng vào chậu các chậu nông trong các chất trồng gồm mảnh vỏ cây nhỏ, đá trân châu và rêu nước. Vào mùa xuân, khi thấy chồi mới xuất hiện thì đưa chúng vào nơi có nhiệt độ cao hơn một chút (không nóng), dưới bóng râm và cẩn thận mỗi khi tưới nước. Trước khi các lá của cây lan bị chết và rụng đi thì vẫn tưới nước và bón phân, cho đến vài tháng sau khi việc ra hoa đã kết thúc.
Pleione bulbocodioides
Cùng loài: Pleione pogonioides
Đây là một biến loài. Giả hành hình côn, dài chừng 2,5 cm. Có 1 lá, dài 15 cm, rộng 2,5 cm, lá phát triển sau khi ra hoa. Vòi hoa dài 20 cm, có 1 hoa, hiếm khi có 2 hoa, hoa to 7-9 cm, màu hồng đến màu đỏ tía đậm. Môi dài 45 mm, có những đốm màu sẫm hơn, riềm môi có tua. Mô sần có 4-5 phiến lá kính. Ra hoa vào mùa xuân.
Địa lan hoặc thạch lan trên và trong các tảng đá phủ rêu, trên độ cao 900-3.600 m, trải dài khắp Trung quốc.
Đây là loài lan được lai tạo trong tự nhiên giữa loài P. forrestii Schlechter và loài P. albiflora P. Cribb & C. Z. Tang mà nhiều người đã gọi nhầm là P. forrestii. Giả hành hình côn, chiều cao và chiều 20-25 mm, trên đỉnh có 1 lá. Vòi hoa cao 2-5 cm, có 1 hoa, hoa có hương thơm, màu vàng ngả sang màu hoa anh đào, với những đốm đỏ ở môi. Các lá đài và cánh hoa dài 42 mm, môi dài 32 mm, chân môi có cái túi, riềm đầu môi có tua. Mô sần có gợn 4-6 sóng.
Ra hoa vào mùa xuân.
Địa lan hoặc thạch lan, trên những tảng đá phủ rêu, trên độ cao 2.200-3.200 m, ở Vân Nam, Trung quốc.
Loài tương tự: Pleione forrestii Schlechter, ở Vân Nam và miền bắc Myanmar, có hoa nhỏ hơn một chút và môi liền.
Giả hành hình trứng, dài 30 mm, màu xanh hoặc màu đỏ tía, trên đỉnh có 1 lá, lá dài 25 cm.
Vòi hoa cao 7-12 cm, có 1 hoa, đôi khi có 2 hoa, hoa màu trắng đến hồng, môi màu vàng, ngả đỏ hoặc có những đốm nâu. Các lá đài và cánh hoa dài 60 mm. Môi dài 55 mm, quăn mép, đỉnh của môi có tua. Ra hoa vào mùa xuân. Đây là loài lan trồng khá phổ biến, một trong những loài lan khỏe mạnh và rất dễ trồng.
Địa lan, thạch lan hoặc lan biểu sinh, nhưng thường mọc trên đá trong các khu rừng trên núi và vùng cận sơn, trên độ cao 500-2.500 m, ở Trung quốc, Đài loan.Loài tương tự: Pleione pleionoides (Schlechter Braem & Mohr (cùng loài P. speciose Ames & Schechter), có hoa với màu sắc phong phú hơn, hoa lớn hơn, với một mô sần có 2-4 mũ màu vàng có răng cưa. Loài lan hấp dẫn này nên gọi chúng là P. speciosa.
Giả hành hình con cù (quay), dài 15-30 mm, to 10-15 mm, màu xanh khảm màu nâu đỏ hoặc đỏ tía, trên đỉnh có 2 lá, là dài 16 cm, rộng 7 cm, hình ê-lip, đầu nhọn. Vòi hoa cao 8-13 cm, có 1-2 hoa, thường xuất hiện sau khi rụng lá. Các lá đài và cánh hoa dài 70 mm, môi dài 50 mm, mép quăn, riềm có răng cưa hoặc cắt cụt. Mô sần có 3-5 đường kẻ. Ra hoa vào mùa thu.
Địa lan hoặc thạch lan giữa hoặc trên các tảng đá, trên sườn núi đá, đôi khi là lan biểu sinh, trên độ cao 1.200-3.400 m, ở Buhtan, Trung quốc, Ấn độ, Myanmar, Thái-lan, Việt Nam.
Loài tương tự: Pleione maculata (Lindley), nơi sinh trưởng với loài P. preacox, với hoa nhỏ hơn, màu trắng, môi có những vệt màu đỏ tía và giả hành một màu xanh; Loài Pleione x lagenaria Lindley, là loài lan lai trong tự nhiên giữa 2 loài nói trên và chúng có một số đặc tính chung.
Nguồn tài liệu: SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )