Dendrobium (phần 4)
Dendrobium sanderae
Thân cây đứng thẳng, mọc thành từng cụm lớn, thân dài 30-100 cm, to 1 cm. Lá dài, màu xanh đậm, dài 10 cm, rộng 3 cm. Vòi hoa nhỏ, phát xuất ở nơi có lá, gần trên đầu của thân, có 8-10 hoa, màu trắng tinh, mỏng như giấy. Môi có những vạch kẻ màu đỏ tía ở phần chân và trên các thùy bên.
Có một biến loài với hoa lớn, thường gọi là var. major Hort ra hoa vào mùa xuân, trong khi đó var. parvifl orum Anschutz ex Quisumbing lại ra hoa vào mùa thu.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa, trên độ cao 1.100-1.650 m, ở đảo Luzon thuộc Philippines.
Giả hành cũng như lá được bao bọc bởi một lớp lông dày màu trắng. Giả hành ngắn và to, dài 5-20 cm, to 1 cm. Có 5-6 lá, hình mũi mác, màu xanh xám, thuộc loài rụng lá theo mùa. Có 3-5 hoa, mọc ra từ phần trên của các giả hành trưởng thành, màu vàng sáng. Mặt trên phía trong họng và các thùy bên của môi màu xanh.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng trên núi với mùa khô rõ rệt và dưới ánh sáng mạnh, trên độ cao 500-1.500 m, ở Lào, Myanmar, Thái-lan.
Dendrobium smillieae
Ban đầu giả hành đứng thẳng, lâu dần chúng rủ xuống, dài tới 100 cm, hình thành những cụm lớn. Lá dài 15 cm, rộng 4 cm, hình mũi mác, nhọn, sau 1 năm thì rụng. Có 1-3 vòi hoa trên những thân đã rụng lá, có nhiều hoa mọc sít nhau trong một đoạn ngắn trồng giống như cái chổi cọ chai. Hoa màu trắng hoặc hồng. Đỉnh môi màu xanh bóng, thụ phấn bởi chim.
Lan biểu sinh trong những khu rừng nhiều mưa gần bờ biển và trên đá trong những khu rừng thưa, trên độ cao 0-500 m, ở Australia, New Guinea, Molucacas, Silawesi.
Giả hành to, dài 30-60 cm, to 2-6 cm, hình thành những cụm lớn. Có 2-6 lá, lá dài và không rụng theo mùa, dài 4-25 cm, rộng 2-4 cm. Vòi hoa phát xuất từ đỉnh giả hành, thẳng đứng hoặc nằm ngang, dài 60 cm, có tới 100 hoa. Hoa màu trắng kem hoặc vàng, hoa to 2,5-5 cm. Rất khác nhau trong cùng một loài vì phạm vi của nó khá rộng và có một số biến loài đã được ghi nhận.
Là thạch lan, có một số trường hợp là lan biểu sinh, ở những khu vực mưa quanh năm, trên độ cao 0-1.200 m, ở Australia.
Giả hành hình trụ, cũng có khi phần gốc thì nhỏ, phần trên nở ra, giả hành dài 60 cm, to 2-3 cm, hình thành những cụm lớn. Có 4-6 lá, tập trung ở đỉnh của thân, lá dai và không rụng theo mùa, dài 18 cm, rộng 5 cm. Vòi hoa đứng thẳng, có tới 20 hoa, hoa to 4-8 cm. Tất cả các bộ phận của hoa đều quăn và xoắn lại, hoa màu
xanh pha vàng, có những sọc và chấm màu hạt dẻ đậm.
Lan biểu sinh, dưới các tán cây trong rừng, thỉnh thoảng thấy chúng là thạch lan, trong những rừng vùng thấp, ẩm và nóng, những rừng dừa và rừng trên núi thấp hơn, trên độ cao 0-1.000 m, ở New Guinea, đảo Bougainville, quần đảo Solomon, Vanuatu.
Cùng loài: Dendrobium phlox Schlechter
Giả hành nhỏ phân nhánh, thẳng đứng hoặc rủ xuống, thường là dài 25-40 cm, có lá ở phần trên của thân. Lá mỏng, rụng theo mùa, dài 3,5-7,5 cm, rộng 0,4-1,5 cm. Vòi hoa ngắn mang trên nó 3-8 hoa, mọc hai bên trên những thân đã rụng lá. Hoa hình ống, dài 1-4 cm, màu vàng xỉn, vàng kim hoặc màu cam, đôi khi có chi tiết giống cái cằm màu cam.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa trên núi quanh năm mây phủ, hoặc là địa lan trên các triền cỏ trên núi cao và trên vách đá, trên độ cao 1.200-3.300 m, ở New Guinea.
Giả hành đứng thẳng, cao 75 cm, to 3 cm, lá mọc ở nửa trên của thân. Lá thuôn hoặc hình ê-lip, dài 7-11 cm, rộng 3-5 cm. Vòi hoa hướng lên trên, phát xuất từ gần ngọn của thân, có chừng 15 hoa to, hoa có màu cam, xanh hoặc nâu ngả đỏ. Các lá đài rộng hơn nhưng ngắn hơn các cánh hoa, lại hơi quăn. Môi hoa hẹp,
với các tua màu đỏ của hoa tử đinh hương.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng trên núi, gần bờ biển và trên đá, trên độ cao 0-400 m, ở Papua New Guinea.
Thân dài và phân nhánh, không khác so với giả hành, hình thành những cụm lớn tới 3 m, rễ chỉ có ở gốc thân. Lá đơn, nhọn, dài tới 60 cm. Vòi hoa hơi thẳng hoặc cong, trên thân có 1-2 vòi hoa, mang 4-15 hoa. Hoa màu trắng,
kem hoặc vàng trông giống con nhện, to 3,5 cm.
Thùy giữa của môi có riềm xếp nếp.
Lan biểu sinh, trong các rừng đước và rừng trên núi, khu vực có nhiều ánh sáng, cũng mọc ở trên đá nữa, độ cao 0-1.000 m ở Australia.
Giả hành đứng thẳng hay rủ xuống trong một bụi, phần gốc rất nhỏ, phần trên phình ra, tạo thành 4 góc, dài tới 45 cm, to 1-1,5 cm. Có 2-5 lá ở trên đỉnh của thân, lá mỏng nhưng cứng,
dài 3-8 cm, rộng 1,5-2,5 cm. Vòi hoa dài 3-8 cm, trên mỗi vòi hoa có 3-8 hoa, hoa màu xanh xỉn, màu kem hoặc pha màu nâu. Lá đài to ở phần chân và thường dài hơn cánh hoa. Môi ngắn hơn nhưng rộng hơn các bộ phận khác của hoa, màu trắng và có điểm thêm màu nâu. Rất khác nhau trong cùng một loài vì phạm vi của nó khá rộng và có một số biến loài đã được ghi nhận một vài loài được coi là hiếm.
Lan biểu sinh, thường sống trong rừng, ở vùng đất thấp, trên độ cao tới 1.000 m, ở miền đông Australia.
Giả hành dài 30-50 cm, nhỏ thường cong rủ xuống. Lá màu xanh nhạt, rụng theo mùa. Vòi hoa phát xuất từ đốt trên của thân đã rụng lá. Có 2-3 hoa, hoa to 3-4 cm, cánh hoa rộng hơn lá đài, cả hai đều có màu trắng pha hồng, gần đầu cánh có màu tím hoa cà. Môi hình trứng thuôn, bọc trụ hoa ở phần chân và có hai miếng bớt màu đỏ tia gần phần chân.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng ở triền núi của dãy Himalayas, trên độ cao 1.000-1.500 m, ở miền đông bắc Ấn độ, Myanmar.
Giả hành ngắn, mọc thành cụm, cao 10-25 cm, to 1 cm, có các khe rãnh dọc theo thân, đôi khi còn có lông. Lá thuôn hẹp, mọc gần đỉnh của thân, dài 10 cm, rộng 2,5 cm, có lông ở phần dưới và trên vỏ lụa của lá. Vòi hoa ngắn, phát xuất gần đỉnh của thân, có 2-3 hoa, hoa to 5 cm, có hương thơm, cánh hoa giống như sáp, màu vàng sáng. Môi màu xanh và có lông trên mặt trong của môi.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng trên núi, có mùa khô rõ rệt, trên độ cao 1.500-1.800 m, ở Myanmar, Thái-lan, Lào, Vân Nam Trung quốc.
Giả hành thẳng đứng, sau một thời gian thì rủ xuống, màu của giả hành từ xanh đậm đến nâu hoặc đen, dài 25 cm, to 1 cm. Có ít lá, lá hẹp, dài 4,5 cm, rộng 1,5 cm, mọc ở gần đỉnh của thân. Vòi hoa mọc hai bên từ đốt trên của thân, có 2-4 hoa màu cam sáng, hoa to 4-5 cm, các lá đài và cánh hoa hẹp và đối xứng nhau.
Môi liền và chiếm phần trên của hoa, màu môi là cam nhạt với những đường vân đậm chạy theo chiều dọc môi.
Là lan biểu sinh, sống trên các bụi cây và trên cây, là thạch lan sống trong nơi có khí hậu gió mùa, ánh sáng mạnh, trên độ cao 800-1.500m, ở Thái-lan, Lào, Việt Nam.
Giả hành mọc thành bụi, cao 3-15 cm. Có 2-10 lá, lá hẹp chĩa lên đỉnh của thân. Hoa mọc thành cụm với 2-5 hoa ở đầu mút của thân, hoa dài 2-4 cm, hoa rất lâu tàn, bầu nhụy trông như ba cái cánh.
Có 7 biến loài đã được ghi nhận dựa trên tính chất thực vật và màu hoa của chúng. Biến loài vexillrius có hoa màu vàng đến vàng pha xanh.
Môi màu xanh đen hoặc đen với đầu cánh có màu cam hoặc đỏ. Các biến loài khác có màu đỏ cam, hồng, vàng, trắng hoặc xám xanh dương.
Là lan biểu sinh, sống trên cây trong các khu rừng có khí hậu mát mẻ, nhiều mưa, là địa lan sống trong các đồng cỏ, trên độ cao 1.000- 4.000 m, ở New Guinea, Moluccas, những hòn đảo thuộc Bismarck.
Giả hành dài, nhỏ, phân nhánh hình thành những tấm thảm rối rắm, giả hành dài 30-40 cm, có khi lên tới 100 cm. Lá hẹp, rụng theo mùa, dài 7 cm, rộng 1,3 cm. Vòi hoa mọc hai bên trên thân cây trụi lá, có 2-5 hoa, hoa giống như sáp, to 3-4 cm, và màu xanh dương với sắc độ khác nhau, thường với những gân màu đậm hơn. Trụ hoa trắng.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng mây che phủ, thích hợp dưới bóng râm và ẩm ướt, trên độ cao 1.300-2.600 m, ở Philippines.
Nguồn tài liệu : SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )