Cochlioda
Tông: Maxillarieae
Tông phụ: Oncidinae
Phân bố: Có 8 loài và 1 loài lai tự nhiên ở miền tây Nam Mỹ.
Giả hành dẹt, có 1-2 lá trên đỉnh. Lá thẳng hoặc hình đai (strap). Vòi hoa xuất phát từ gốc, thông thường thì không phân nhánh. Hoa có màu sáng.
Lá đài và cánh hoa phẳng, cánh hoa lớn hơn lá đài. Môi hoa thiếu cựa, có một cái móng ở phần chân, một phần gắn với trụ hoa, môi có ba thùy, thùy giữa liền hoặc có hai thùy.
Đỉnh của trụ hoa như cái cánh, khối phấn 2, có 2 khoang ở đầu nhụy hoa.
Các loài thuộc Cochlioda thường được dùng để lai tạo với họ hàng Oncidium, có những giống lai như x Ondotioda và x Vuylstekeara, những loài này cho hoa có một màu đỏ sáng.
CÁCH TRỒNG
Cây lan thường được trồng trong chậu với chất trồng chủ yếu là các miếng vỏ cây. Môi trường thích hợp với chúng là mát, dưới bóng râm, độ ẩm trung bình và thông gió tốt. Vào mùa lan nghỉ thì cần tưới thật ít nước.
Cochlioda noezliana
Giả hành cao 5 cm, chỉ có 1 lá. Lá dài 25 cm, hình đai (strap).
Vòi hoa uốn cong, dài 45 cm, không nhiều hoa lắm, hoa to 4-5 cm, hoa có màu đỏ tươi hoặc đỏ cam. Môi có một cái đĩa vàng có 4 đường sống trâu. Ra hoa vào mùa hè-thu.
Lan biểu sinh, đôi khi thấy chúng là thạch lan, trong những khu rừng mây phủ, trên độ cao 2.000-3.500 m, ở miền bắc Peru.
Cochlioda rosea
Giả hành cao 8 cm, có 1 lá, lá dài 15-20 cm, hình đai (strap).
Vòi hoa uốn cong, dài 45 cm, hoa to 2-3,5 cm, màu hồng đậm hoặc đỏ thắm, môi có một mô sần màu trắng. Ra hoa vào mùa xuân-hè.
Lan biểu sinh trong những khu rừng cận sơn ẩm ướt, trên độ cao 1.500-2.200 m, ở Ecuador, Peru.
Nguồn tài liệu từ: Sách hoa lan ( CỦA BÁC PHẠM TIẾN KHOA )