Scuticaria
Tông: Maxillarieae
Tông phụ: Zygopetalinae
Phân bố: Có 9 loài từ Trung và Nam Mỹ.
Lan biểu sinh đa thân, với thân rễ ngắn, bò lan. Giả hành nhỏ, trên đỉnh có 1 lá. Phiến lá dày, lá dài, rủ xuống, gần giống hình trụ nhưng mặt trên lại có xẻ rãnh. Vòi hoa phát xuất hai bên thân, có 1 đến vài hoa, hoa có màu sắc nổi bật. Các lá đài và cánh hoa tương tự nhau, không tự liên kết với nhau, tất cả đều phẳng.
Môi chia ba thùy, hai thùy bên dựng đứng, thùy giữa tròn và riềm môi quăn.
CÁCH TRỒNG
Do lá của chúng dài và rủ, các loài thuộc giống Scuticaria thường trồng bằng cách ghép trên tấm vỏ cây dựng đứng, nhưng cũng có thể trồng trong chậu mà ta có thể nâng cao chậu được, với chất trồng thường dùng cho lan biểu sinh, chủ yếu là mảnh vỏ cây. Nhiệt độ trung bình, bóng râm vừa phải, độ ẩm cao. Trong quá trình phát triển cần tưới nhiều nước, như sau khi cây đã ra hoa thì giữ cho cây khô hơn.
Lá dài 45 cm, rộng 1 cm. Vòi hoa dài 5 cm, uốn cong hoặc buông rủ, có 1-2 hoa, hoa to 6-8 cm, hương thơm, lâu tàn. Các lá đài và cánh hoa màu xanh, vàng ngả xanh hoặc vàng với những vạch và đốm màu nâu đỏ tía. Môi có kích thước 3,5 x 3 cm, màu trắng hoặc vàng xỉn, có những chấm ngả màu đỏ tía, môi hình bán cầu, hoặc hình trứng, bên trong có cái túi và lông. Ra hoa vào mùa xuân – thu.
Lan biểu sinh, trong những khu rừng rậm sơ cấp, độ cao trên 1.500 m, ở Brasil, Guyana.
Giả hành dài 3 cm. Lá dài 160 cm, rộng 1 cm, đôi khi trường hợp lá còn dài hơn thế. Cuống hoa ngắn, có 1-3 hoa, hoa to 7-8 cm, giống sáp, hương thơm, lâu tàn, màu vàng hoặc vàng ngả xanh, với những đốm ngả đỏ hoặc màu hạt dẻ.
Môi ngả trắng hoặc màu kem, với những sọc màu đỏ, riềm quăn. Mô sần màu vàng sáng hoặc màu cam.
Lan biểu sinh, trong rừng ở Trung, Nam Mỹ.
Nguồn tài liệu: SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )