Calypso
Tông: Calypsoeae
Calopogon tuberosus
Phân bố: Có 1 loài ở vùng cực, miền bắc châu Âu, Bắc Mỹ và miền bắc Á
Là loài địa lan lùn tịt, với 1 giả hành, 1 lá trên đỉnh giả hành, lá phẳng, có cuống lá. Vòi hoa xuất phát từ gốc giả hành, hướng lên trên và cũng chỉ có 1 hoa. Các lá đài và cánh hoa tương tự như nhau, nằm ngang và hướng lên phía trên một chút. Môi hoa có dạng như cái mũi giầy, phần cuối như cái túi, với 2 cựa trông như hai cái sừng. Trụ hoa rộng, màu hồng. Khối phấn
chia làm hai cặp.
CÁCH TRỒNG
Giống lan này nên bắt đầu trồng vào mùa thu, tốt nhất là trồng chúng nơi có nhiều bóng râm. Cũng có thể trồng chúng nơi có rêu nước sống hoặc hỗn hợp lá cây mục, hoặc những mảnh vỏ cây với những hạt sạn (sỏi) thô. Cây
sẽ ra hoa vào từ đầu mùa xuân tới mùa hè. Vào mùa hè, sau khi cây đã ra hoa, cần để cho chúng khô, nhưng đừng để khô hoàn toàn.
Calypso bulbosa
Thân cao 10-20 cm, cuống lá dài 1-6 cm, Lá hình trứng, có 3-6 lá dài 1-2 cm. Các lá đài và cánh hoa hình mũi mác thẳng, dài 2 cm, màu hồng sáng hoặc đỏ cờ. Môi hoa dài 2,5 cm, màu trắng cho đến màu hồng nhạt với một ít chấm màu đỏ tía và một túm lông màu vàng hoặc trắng ở phần gốc.Hiện nay có bốn biến loài đã được phát hiện.
Biến loài Var. bulbosa được tìm thấy từ Thụy điển tới Korea, loài này có túm lông màu trắng.
Biến loài Var. americana (R. Brown) từ miền đông Hoa Kỳ và Canada, có túm lông màu vàng và có rất ít chấm ở phía trước của môi.
Biến loài Var. occidentalis (Holzinger) Cockerell ở miền tây Hoa Kỳ, có hoa màu hơi xỉn và chỉ có một ít lông màu trằng.
Biến loài Var. speciosa (Schlechter) Makino ở Nhật bản có tua màu vàng và cựa dài.
Thích hợp với những nơi đầm lầy, rừng tùng bách, thường là nơi có rêu hoặc lá cây mục, trên độ cao 0-3.000 m ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ.