Amitostigma
Tông: Orchideae
Tông phụ: Orchidinae
Phân bố: Bao gồm khoảng 30 loài từ Trung quốc, Ấn độ, Nhật bản, Triều tiên, Miến điện và Việt Nam.
Là loài lan thảo mộc, thuộc địa lan, thân nhỏ hình trứng. Lá thường chỉ có một trên mỗi thân, lá hẹp hình thuôn hoặc hình ê-lip, đầu nhọn, mọc từ gốc hoặc từ nửa dưới của giả hành. Vòi hoa không có nhiều hoa. Hoa màu trắng, hồng, tím hoa cà, đỏ tía nhưng ít khi thấy có màu vàng. Môi hoa thường có những điểm màu đỏ đậm. Các lá đài và các cánh hoa phát triển không theo quy ước. Môi chia thành các thùy.
CÁCH TRỒNG
Có nhiều loài khác nhau được trồng ở Trung quốc và Nhật bản. Vì là địa lan nên chất trồng cũng như các chất trồng của các loài địa lan khác. Nên trồng trong nhà kính hoặc nhà trên núi, có làm mát, bóng râm vừa phải. Trong thời gian cây lan phát triển thì cần tưới nhiều nước. Khi thấy cây lan khô héo thì ngưng tưới, đó là lúc chúng chuẩn bị ra hoa.
Amitostigma faberi
Cây cao tới 20 cm. Lá dài 2-6 cm, rộng 2-10 mm, lá hình thuôn. Vòi hoa có 2-8 hoa, to 1 cm, màu đỏ tía. Môi hoa có 4 thùy, dài 6-8 mm, đậm màu hơn và phần chân có màu trắng xanh. Cựa hoa thon nhỏ, dài 5-6 mm. Ra hoa vào mùa hè. Nơi sinh trưởng của loài địa lan này là trên những sườn đồi cát pha đá, hoặc trên những tảng đá có rêu ở trong rừng, trên độ cao 2.400-3.000 m ở Trung quốc.
Amitostigma keiskei
Cây chỉ cao 5-15 cm. Lá hình thuôn dài 7 cm. Trên mỗi vòi hoa có 1-3 hoa, hoa to 1 cm màu tím hoa cà, với hai đường chấm đỏ tía ở phần chân của môi, hiếm khi thấy màu trắng. Môi có 4 thùy sâu. Cựa ngắn.
Ra hoa vào mùa hè.
Amitostigma keiskei sinh trưởng ở những vùng trũng trên núi hoặc trên những tảng đá có rêu ở Nhật bản.
Nguồn tài liệu từ: Sách hoa lan ( của Bác Phạm Tiến Khoa )