Lyperanthus
Tông: Diurideae
Tông phụ: Megastylidinae
Phân bố: Có 2 loài ở Australia.
Địa lan với thân củ hình trứng, hình thành những củ mới ở phần cuối của thân bò lan dài.
Có 1 lá đơn, mọc từ gốc, hình mác thẳng, dai, dựng đứng. Vòi hoa không phân nhánh, có 1 đến vài hoa, lá bắc của giống lá, có vỏ lụa. Hoa mọc ngược, có màu mờ, các lá đài và cánh hoa không theo quy ước, mỏng nhưng dai. Lá đài sau hình thành cái mũ chụp phủ lên trụ hoa, các lá đài bên hẹp hơn lá đài sau, cánh hoa tương tự như lá đài bên.
Môi chia làm ba thùy, không có cựa nhưng lại có nhiều mô sần. Hoa xuất hiện vào mùa xuân sau khi lá đã mọc đầy đủ.
CÁCH TRỒNG
Là loài dễ trồng, chất trồng cần thoát nước tốt, bao gồm đất sét, mùn đá hoặc cát thô, lá mục hoặc vỏ cây mịn. Chậu trồng cần được giữ mát, để nơi thoáng gió. Khi cây đã trưởng thành thì giữ khô. Vào mùa thu, chồi mới hình thành, lúc đó tưới nước một cách cẩn thận. Các củ cần đủ lớn thì mới cho hoa.
Lyperanthus serratus
Lá dài 3,5 cm, rộng 1,5 cm. Vòi hoa cao 35 cm, có 3-7 hoa, hoa to 4,5 cm, màu xanh xỉn nâu ngả đỏ, trên bề mặt của thùy giữa phủ các mô sần màu trắng.
Các cây lan tạo thành các bụi trong các khu rừng cây vùng đất thấp, ken dày các bụi và cây cỏ ven bờ biển, ở miền tây nam Australia.
Lá dài 20 cm, rộng 1,2 cm. Vòi hoa cao 45 cm, có 2-8 hoa, hoa có hương thơm, hoa to 3 cm, lâu tàn, màu nâu vàng đến màu nâu ngả đỏ đậm. Thùy giữa của môi màu vàng.
Hình thành bụi trong các khu rừng vùng đất thấp và thạch nam, đất thoát nước, trên độ cao 0-1.000 m, ở miền đông Australia, Tasmania.
Nguồn tài liệu: SÁCH HOA LAN ( Của Bác Phạm Tiến Khoa )